[S] Việt Nam Và Cuộc Chiến Trung Pháp

Giỏ hàng

 

Chia sẻ

Facebook Twitter Google Buzz Link hay
Tác giả: Long Chương NXB: Tổng Hợp TP.HCM Hình thức: Bìa Cứng
Giá bán: 450.000 VNĐ

- [S]: Bản S, bản đặc biệt

- Một ấn bản mà khi nhìn, khi chạm, nó đem đến một cảm giác "rất phê" cho dù bạn là một người đọc bình thường hay một "tay chơi sách thượng hạng".

---------

- Bìa cứng có áo

- Bản giới hạn đánh số, có ấn triện của Tao Đàn Thư Quán

- Những sự thực, những góc khuất của lịch sử được soi rọi chiếu sáng

* * *

>> Sách Chính trị-Lịch sử-Địa Lý

>> Sách Văn Hóa Xã Hội

>> Tủ Sách * Tác Giả Nổi Tiếng

 
 

Sản phẩm liên quan

 

Mô tả sản phẩm

VIỆT NAM VÀ CUỘC CHIẾN TRUNG - PHÁP (越南與中法戰爭) của Long Chương (Giáo sư Sử học tại Đài Loan).
Nguyên tác bằng tiếng Hoa, xuất bản tại Đài Loan năm 1996, là một biên khảo về cuộc tranh chấp Trung - Pháp vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng lại có liên quan mật thiết đến lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn.


Những sự thực, những góc khuất của lịch sử được soi rọi chiếu sáng

* LỜI DỊCH GIẢ

Khi ở bậc Trung học, những năm đệ nhị cấp (tức cấp 3) chúng tôi được học về thời kỳ người Pháp xâm chiếm nước ta. Dấu ấn của giai đoạn này là những hiệp ước mà mỗi lần ký kết thì đất đai và quyền tự chủ của triều đình Huế lại lùi thêm một bước.

Năm 1862, nước ta mất ba tỉnh miền đông Nam Kỳ, đến năm 1874 phải ký hòa ước nhường đứt 6 tỉnh rồi đến năm 1883 thì nhận quyền bảo hộ của người Pháp trên toàn lãnh thổ. Sau đó một năm, người Pháp lại sửa đổi một số chi tiết và ký một hòa ước mới năm 1884. Những hòa ước ấy chúng tôi quen thuộc với những tên Hòa ước Nhâm Tuất (1862), Hòa ước Giáp Tuất (1874), Hòa ước Quí Mùi (1883) và Hòa ước Giáp Thân (1884). Hai hiệp ước sau vẫn được gọi là Hòa ước Harmand và Hòa ước Patenôtre lấy tên của những người Pháp ký hòa ước đó.
Về giai đoạn lịch sử nhiễu nhương này, chương trình đặt trọng tâm vào những diễn biến như việc quân Pháp đánh Đà Nẵng, Kỳ Hoà, việc sứ thần sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông rồi sau mất cả Nam Kỳ đưa đến cái chết của cụ Phan Thanh Giản.

Sau đó không lâu, người Pháp tìm đường sang Vân Nam theo đường sông Hồng đưa đến xung đột Pháp Việt khiến hai danh thần phải chết theo thành Hà Nội, đó là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Sự kiện đáng ghi nhớ hơn cả là việc Francis Garnier và Henri Rivière bị quân Cờ Đen giết ở Cầu Giấy và biến động kinh kỳ để vua Hàm Nghi phải xuất bôn. 
Sử ký vẫn chỉ là sự được và mất của những triều đại nên tường thuật của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược là điều cần ghi nhận: 

“… Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà-nội, ở Hải-phòng và ở Nam-định nhưng chỗ nào cũng thất bại.
Quân ta bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người, cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái-phá thì xô đẩy nhau mà chạy; còn quân của nhà vua thì không có luyện tập, súng đại-bác toàn là súng cổ, súng tay thì ít và xấu. Như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là quân đã quen đánh trận và lại có đủ súng-ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc hoà đổi ra cuộc chiến, suý-phủ Sài-gòn đuổi quan lĩnh-sự Việt-nam ta là ông Nguyễn Thành-Ý về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, thì vua Dực-tôn mất.

Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm quí-mùi (1883), trị-vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu-hiệu là Dực-tôn Anh-hoàng-đế”.  

Khi người Pháp bảo hộ, những vụ nổi dậy từ nam ra bắc, Trương Định, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám… đánh dấu giai đoạn mất quyền tự chủ. Khi kháng chiến bằng võ lực thất bại, giới trí thức phát động phong trào canh tân và tìm đến sự cải cách bên trong, hỗ trợ từ bên ngoài. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ, những kêu gọi duy tân của Phan Chu Trinh và nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục tuy được nhiều sĩ phu hưởng ứng nhưng bộ máy cai trị của người Pháp càng lúc càng hoàn bị. Những mốc thời gian ấy chỉ coi như một đám lửa cháy lan dần, cho đến khi người Pháp hoàn toàn kiểm soát toàn cõi Đông Dương. 

1. THAM VỌNG CỦA TRUNG HOA

Khi người Pháp đánh Bắc Kỳ, những trận đánh giữa Pháp và quân triều đình, quân Cờ Đen và quân Tàu đã không vẽ ra được một khung cảnh rõ rệt. Hầu như ít ai tìm hiểu tại sao lại có mặt của nhiều thế lực trên cùng một địa bàn và hậu quả thế nào đối với vận mệnh đất nước. Trước đây, lịch sử ít khi đề cập đến những trao đổi hậu trường giữa Pháp và Trung Hoa để phân chia quyền lợi của họ trên đất nước Việt Nam. Nghiên cứu của Long Chương đã mở ra một hướng nhìn khác hẳn và cho chúng ta thấy trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, vận mệnh của đất nước mình không phải được quyết định ở Hà Nội, Huế hay Saigon mà ở những nơi xa xôi như Paris, Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải … Những tranh biện ngoại giao, những nhượng bộ thương mại đưa đến nhiều khu vực biên giới được giữ lại cho nước ta hay thuộc về lãnh thổ của Tàu. Những thương thuyết đó triều đình Huế không được tham dự đã đành mà có khi còn không biết đến, cũng chẳng thấy đề cập đến trong quốc sử.

Trong quá trình đó, Hòa ước Giáp Tuất 1874 là bản lề quan trọng nhất của người Pháp vì triều đình Huế phải nhường 6 tỉnh Nam Kỳ, “ba tỉnh lại chầu ba” như cụ Phan Thanh Giản đã than thở. Hiệp ước này đúng ra chỉ xác định một việc đã có sẵn vì Nam Kỳ đã mất từ 6 năm trước (1868) khi Phan Thanh Giản qua đời.

Tuy Hòa ước Giáp Tuất không mấy nổi trội nhưng chính từ những điều kiện của hiệp ước này đã đưa đến nhiều vấn đề. Quan trọng nhất, người Pháp phủ nhận cái quyền tông chủ của nhà Thanh đối với Việt Nam mà họ vốn chỉ coi là nghi thức ngoại giao, triều cống phương vật để biểu lộ sự phục tòng chứ không phải là một thuộc quốc theo nghĩa hành chánh.

Thế nhưng, một mặt do lòng tham của Trung Hoa muốn giải thích sao cho có lợi, đồng thời tạo một lý do chính đáng để đem quân can thiệp vào nước ta. Cũng chính từ lối giải thích mập mờ của quyền tông phiên [mà nhà Thanh cho rằng cũng không khác gì quyền bảo bộ của người Pháp], cộng thêm sự cầu viện ngầm của triều đình Huế, lấy tiếng là tiễu phỉ, để nhờ người Tàu sang đối đầu với người Pháp ở Bắc Kỳ. Kể từ đó, việc chống Pháp ở miền bắc do quân Thanh và quân Cờ Đen là chính, còn quân của chính triều đình Tự Đức thì lại xuống hàng thứ yếu, đưa đến những thất bại nhanh chóng khi một lực lượng nhỏ của Pháp cũng lấy được nhiều tỉnh trong vùng tam giác châu miền bắc, kể cả cố đô là Hà Nội. Hai vị lão thần Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu chỉ biết lấy thân đền nợ nước để tránh nỗi nhục bị xử án như Phan Thanh Giản ở trong nam.

Có lẽ, đúng như Phan Khoang nhận xét, sau khi ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế không ý thức được sự yếu kém của mình mà tự lực canh tân, ngược lại còn đi sâu thêm vào việc tự cô lập, theo kiểu tự chui đầu xuống cát. Tác giả Phan Khoang viết:

“… Trong hoà-ước Giáp-tuất, hai khoản thứ ba, thứ tư biếu ta một số tầu, súng, và cấp ta người huấn-luyện quân-sự, kỹ-sư để giúp việc và bầy dậy cho, nếu vua quan ta biết khéo lợi dụng cơ-hội ấy thì có lẽ nước ta cũng đã tiến được một bước trên đường văn minh mới, ngặt vì tinh-thần bài Pháp quá hăng, chưa thấy rõ giá-trị của văn-minh mới, nhất định không chịu bắt chước gì của kẻ địch bầy dạy, nên hoà-ước ký rồi thì Triều-đình bỏ vào tủ, rồi trong mọi việc, đường lối nghìn xưa thế nào thì nay cứ tiếp theo thế mà làm, không chịu tự-tu, tự-chỉnh, tự-tân, tự-cường, cho nên chẳng bao lâu, mảnh đất Trung, Bắc-Kỳ còn lại cũng sa nốt vào lao-lung ngoại-quốc”.

Chúng ta thấy có hai giai đoạn, mỗi giai đoạn khoảng 10 năm (1862 - 1874 và 1874 - 1883) nếu biết canh tân có lẽ cũng đi được những bước dài. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy nên gần như Việt Nam đứng tại chỗ, nếu không nói là đi giật lùi. Trong khoảng 20 năm đó, một khoảng thời gian có thể nói là sinh tử đối với vận mệnh của đất nước, triều đình Huế đã không đánh giá được đúng mức nhu cầu cải cách. Không nói gì đến những cường quốc kỹ nghệ, sự canh tân của nước ta xem ra còn kém xa những quốc gia có cùng hoàn cảnh như mình như Xiêm La, Nhật Bản.

Năm Mậu Thìn (1868) có kỳ thi Hội, đề thi “quân xâm lăng hiện nay càng ngày càng thêm gây hấn, đồn luỹ khắc dân gian, vậy nên đánh hay nên hoà?”.

Vũ Duy Tuân (sau làm ngự sử nên thường gọi là ngự Lạc Tràng) trong bài làm có câu:

朝廷擁百萬之精兵,見義不爲無勇也.(Triều đình ủng bách vạn chi tinh binh, kiến nghĩa bất vi vô dũng dã: Triều đình sẵn hàng trăm vạn quân tinh nhuệ, thấy việc nghĩa không làm thì không phải là dũng vậy).

Vua Tự Đức châu phê vào bên câu này: "(今日請戰,明日請戰,戰而不勝,將置朕於何地. (Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, tương trí trẫm ư hà địa?: Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh, đánh mà không thắng thì để trẫm ở chỗ nào?”.

Một trong những vướng mắc của Việt Nam là nước ta là phiên thuộc của Trung Hoa, mỗi lần thay đổi triều đại, thay đổi ngôi vua thì đều phải có khâm sứ Trung Hoa sang làm lễ thì mới “chính danh định phận”. Mặc dù quyền nội trị, ngoại giao của nước ta vẫn độc lập, có nước nào đến thông hiếu, giao thiệp triều đình Việt Nam đều được tự quyết không phải hỏi ai nhưng khi phải đối phó với sự xâm lăng của người Pháp, vua Tự Đức đã không còn giữ được sự độc lập – dù chỉ là hình thức - mà lại đi theo vết xe đổ của các triều đại trước khi thấy ngai vàng và vương quyền của mình bị đe doạ. Đó là cho người sang cầu viện Trung Hoa.

Thế nhưng triều đình Huế không biết rằng chính Trung Hoa cũng đang gặp nhiều khó khăn về cải cách. Mọi cơ cấu của Thanh đình đều giữ nguyên như cũ, một số cải cách và vận động chưa đi đến đâu. Đứng đầu triều đình là một “đại hoàng đế” còn rất trẻ. Vua Quang Tự lên ngôi năm 1875 khi mới có 3 tuổi, quyền hành nằm trong tay thái hậu Từ Hi. Thế nhưng đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch đang ở ngôi thiên tử và người đàn bà goá kia lại là chỗ cho nước ta bám víu. Điều khoản thứ 2 Hòa ước Giáp Tuất (1874) có ghi:

Đức Giám quốc nước Pháp nhận quyền độc lập của vua nước Nam không phải thần phục nước nào, và hứa khi nào vua nước Nam cần, sẽ giúp đỡ cho để đánh dẹp mà giữ cuộc trị an trong nước, chống với nước ngoài đến xâm lăng và phá tan bọn cướp bóc đương khuấy nhiễu ở một phần bờ biển nước Nam.

Thế nhưng nước ta lại không muốn áp dụng điều khoản này nên vẫn tiếp tục triều cống nhà Thanh theo lệ 2 năm một lần, 4 năm hai lần gộp một.

Để hiện thực hoá cái liên hệ vốn chỉ trên hình thức, nhân dịp có mấy vạn quân đóng trên đất nước ta, nhà Thanh đòi chia đôi để mỗi bên “bảo hộ” một nửa, lấy Quảng Trị làm ranh giới, rồi rút dần lên để trả giá với người Pháp rồi sau cùng đòi hỏi sáp nhập một nửa miền bắc Việt Nam vào thành một khu vực thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Những chi tiết đó không bao giờ được nhắc đến trong lịch sử nước ta vì là những mặc cả ở Paris, ở Thiên Tân, ở Bắc Kinh mà người Việt Nam không hề được biết đến.

Mỗi khi Trung Hoa can thiệp vào nội bộ nước ta, thường là lấy một cái cớ chính đáng thông dụng nhất là bảo vệ một triều đại vốn được công nhận nay đang thất thế. Việc can thiệp đó luôn luôn bị bắt buộc phải trả công cho họ, thường là tự nguyện dâng cho một số đất ở biên giới mà chúng ta đã thấy từ triều Hồ, triều Lê-Mạc, đến triều đại cuối cùng là triều Nguyễn. Việc chiếm đất của nước ta bao giờ cũng được nguỵ trang bằng một sự đồng thuận, tình nguyện, có khi nhân danh trả lại một khu vực nhưng thực ra là chiếm đoạt, là những nỗi hận không bao giờ quên.

Riêng lần này, Trung Hoa đòi phân chia nước ta một cách trắng trợn, một phần của Pháp, một phần cho họ. Từ những đòi hỏi phi lý như lấy sông Hồng làm ranh giới, họ rút về phía bắc nhưng vẫn còn rất rộng. Nếu người Pháp không quyết tâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa - hay ít ra cũng là một xứ bảo hộ Đông Dương thuộc Pháp - thì có lẽ giang sơn của chúng ta ngày nay không còn được như bây giờ, mặc dù cuối cùng cũng mất nhiều nơi giàu khoáng sản qua mấy lần vẽ lại biên giới mà chính triều đình Việt Nam không bao giờ được tham dự, hay không bao giờ lên tiếng vì còn vướng bận trong những vấn đề nội trị (những địa điểm hình sao là đất bị nhà Thanh lấn chiếm).

1.1. Khu vực ở Bắc Kỳ Trung Hoa tranh đoạt với Pháp

Ngay từ 1870, trước khi ký Hòa ước Giáp Tuất thì miền bắc nước ta đã có những lực lượng đông đảo quân Thanh đóng rải rác ở nhiều tỉnh phía bắc sông Hồng. Theo Đại Nam thực lục (quyển XLIII) thì:

“… Trước đấy, toán giặc nước Thanh là Ngô Côn (có tên là Á Chung) trốn sang Cao, Lạng quấy nhiễu, nước ta đưa thư cho quan Tuần phủ tỉnh Quảng Tây đệ lên nước Thanh. Đại hoàng đế nước Thanh [lúc này là vua Đồng Trị] bèn sai Đề đốc Phùng Tử Tài coi đem 31 doanh ra ngoài cửa quan cùng đánh (xuất quan hội tiễu)”.

Như thế, việc quân Thanh sang nước ta là do chính triều đình Huế viết thư mời họ. Ba mươi mốt doanh tính ra có đến hàng vạn quân (một doanh quân số khoảng 500 người), còn đông hơn cả đoàn quân của Tôn Sĩ Nghị sang đánh Thăng Long. Xuất quan có nghĩa là ra khỏi Nam Quan, đưa quân sang nước ta. Quân Thanh không dẹp được bọn Cờ Đen, Cờ Vàng nên khi quân Pháp ra Bắc Kỳ, triều đình Huế đành phải dùng đám phỉ đó như những lực lượng đánh thuê, phong quan tước và trả lương để họ đánh Pháp. Những chiến công giết được Garnier, Rivière sau này cũng là của quân Cờ Đen, chứ lực lượng của Việt Nam không làm được. Từ đó trở đi quân Thanh qua lại biên giới nước ta không cần phải thông báo, quân lính sinh sống không khác gì dân bản xứ.

Việc nhà Thanh điều động lực lượng sang nước ta hoàn toàn vượt khỏi sự quyết định của triều đình Huế, cũng không biết họ có thông báo cho nước ta không nữa [chắc là không] vì tuỳ theo nhu cầu mà họ đưa sang nhiều hay ít, không khác gì một tỉnh của họ. Theo Long Chương thì tháng 10 năm 1883 (tháng Chín, Quang Tự 9), Quế quân ở Bắc Kỳ tăng thêm 22 doanh nữa, quân sĩ tổng cộng lên tới 15000 người. Quế quân nhận lệnh chặn giữ Bắc Ninh, Lạng Sơn. Đến đầu năm 1884, quân số Trung Hoa ở Bắc Kỳ ước chừng 27000 người.

Nếu tính thêm cả vài nghìn quân Cờ Đen, số lượng quân Tàu ở thường trực trên đất nước ta lên đến 3 vạn người, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một tổng đốc (Sầm Dục Anh), một tuần phủ (Từ Diên Húc), 1 đề đốc, 2 tổng binh.

Tuy nhiên, người Pháp không dễ bị mắc lừa nên đã đưa thêm viện binh quyết tâm thi hành cái giao ước mà nhà Thanh ký ở Thiên Tân là họ phải rút quân về ngoài biên giới.

1.2. Tham vọng của Trung Hoa

Tính đến năm 1883, quân Tàu đã chiếm đóng mấy tỉnh phía bắc trong gần một thập niên, ban đầu do lời yêu cầu của triều đình Huế. Số quân Thanh đóng ở các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Hoá, Bắc Ninh, Sơn Tây lên đến mấy vạn người. Ngoài ra còn những đám thổ phỉ võ trang hùng cứ một phương như bọn Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc), Cờ Vàng (Hoàng Sùng Anh), Cờ Trắng (Bàn Văn Nhị) từ miền nam Trung Hoa chạy sang.

Trong khoảng gần ½ thế kỷ, Trung Hoa bị liệt cường o ép phải ký nhiều Hòa ước bất bình đẳng. Những nỗi “quốc nhục” đó cũng dấy lên một số cải cách nhất là sau khi nhờ canh tân quân sự và có sự giúp đỡ từ Tây phương, nhà Thanh đã đạt được một số tiến bộ quân sự. Nhiều cánh quân được huấn luyện, trang bị theo lối Tây phương như Tương quân (quân của Tăng Quốc Phiên), Hoài quân (quân của Lý Hồng Chương), Tuỵ quân (quân của Phùng Tử Tài)… Nhà Thanh cũng mua nhiều khí giới mới, thuê sĩ quan Tây phương huấn luyện quân đội, thuê đóng tàu, mở công xưởng và cũng tự hào về thành quả của họ nên nhiều tướng lãnh cũng muốn có dịp thử sức để cho thế giới biết rằng nhà Thanh nay không còn bạc nhược như 50 năm trước. Cũng vì thế, không ít tướng lãnh Trung Hoa muốn dùng miền bắc nước ta như một vùng để thử sức và khi quân Cờ Đen giết được Francis Garnier và Henri Rivière thì báo chí Trung Hoa đã làm ầm lên như một chiến công rửa mặt cho nỗi bại nhục của nước Tàu.

Vai trò và sinh mệnh Việt Nam ở trong tay Từ Hi, Lý Hồng Chương, Tăng Kỷ Trạch, Phùng Tử Tài và những vương công đại thần trong Tổng Lý Nha Môn. Việc triều đình Việt Nam nhờ người Tàu sang đánh Pháp là một kế sách rất tệ vì quân Tàu luôn luôn nhũng nhiễu, đòi hỏi cung ứng mà miền Bắc thì nghèo khổ nên dân chúng ta thán rất nhiều. Mà không phải chỉ vài tuần, vài tháng mà họ ở nhiều tỉnh trong 10 năm trời, nhiều người đã sinh cơ lập nghiệp, lấy vợ người nước Nam, đến khi phải thi hành điều ước Thiên Tân rút về bên kia biên giới thì gồng gánh, lếch thếch rất bệ rạc. Ông Ích Khiêm, một đại thần phải làm bài thơ như sau:

Áo chúa cơm vua đã bấy lâu,

Đến khi có giặc phải thuê Tàu!Ư

Từng phen võng giá mau chân nhẩy,

Đến bước chông gai thấy mặt đâu?

Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp,

Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu.

Ai ôi hãy chống trời Nam lại,

Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu”.

Phải cạo đầu … và để răng trắng như hạt bầu … theo tục và theo lệnh Mãn Thanh.

Thông tin thêm

* * * * *

Sách cũng có bán tại DAVIBOOKS - SÁCH ĐẤT VIỆT, chi nhánh:
 
- A30/9 QL50, Bình Hưng, Bình Chánh, TP.HCM (028 6265 2039)
 
DAVIBOOKS đem đến cho Quý độc giả những cuốn sách mới nhất, nhanh nhất, và chất lượng nhất

Thông tin sản phẩm

Số trang
740
Kích thước
16 x 24 cm
Lượt xem
558
Trọng lượng
1,30 kg

Sách giảm giá

Nhận xét sản phẩm

Không tìm thấy nhận xét nào cho sản phẩm này
 

Viết nhận xét

Vui lòng đăng nhập để đăng nhận xét